13/08/2025

Biến phụ phẩm thành tài nguyên: Hàng trăm triệu USD lợi nhuận bị bỏ phí

Phế phụ phẩm như rơm rạ, vỏ cà phê…đang dần trở thành nguồn tài sản trong mô hình kinh tế tuần hoàn, mở ra hướng tái cấu trúc lợi nhuận cho ngành nông nghiệp. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc phỏng vấn với PGS.TS Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam để làm rõ tiềm năng và giải pháp cho chuyển đổi này.

– Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam cần thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, ông đánh giá như thế nào về vai trò và tiềm năng triển khai kinh tế tuần hoàn hiện nay

PGS. TS Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.

PGS. TS Đào Thế Anh: Kinh tế tuần hoàn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong nỗ lực chuyển đổi mô hình phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, thân thiện với môi trường. Sản lượng sinh khối trong nông nghiệp thâm canh ở Việt nam hiện nay rất lớn, và mới chỉ sử dụng khoảng 50% dưới dạng các sản phẩm nông nghiệp chính, còn lại là phế, phụ phẩm, cần được coi là tài nguyên. Hiện nay, Việt Nam mỗi năm tạo ra hơn 150 triệu tấn phế, phụ phẩm nông nghiệp từ trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản và chế biến, nhưng chỉ khoảng 20-30% được tái sử dụng. Phần còn lại bị lãng phí hoặc xử lý không đúng cách, gây ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính. Đây là một nghịch lý đáng lưu tâm trong chuỗi sản xuất nông nghiệp hiện nay dưới góc nhìn kinh tế nông nghiệp, khi chúng ta chưa khai thác được nguồn tài nguyên này.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, tài nguyên thiên nhiên như đất, nước, năng lượng đang bị suy giảm cả về chất lượng lẫn số lượng, thì việc áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn là hướng đi tất yếu. Tái chế phụ phẩm để sản xuất phân bón hữu cơ, năng lượng sinh học hay các sản phẩm thay thế vật liệu truyền thống không chỉ giúp tiết kiệm chi phí đầu vào mà còn giảm áp lực chất thải lên môi trường.

Ngoài tái sử dụng phụ phẩm, nông nghiệp tuần hoàn còn bao gồm việc sử dụng năng lượng tái tạo như điện mặt trời, tái sử dụng nước tưới, phát triển mô hình trang trại tích hợp để tối ưu hóa tài nguyên. Với lợi thế khí hậu và hệ sinh thái đa dạng, Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để triển khai các mô hình này. Đặc biệt, mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 và cắt giảm 20% phát thải khí nhà kính đến năm 2030 mà Chính phủ đề ra sẽ khó đạt được nếu không có sự tham gia tích cực của ngành nông nghiệp thông qua các giải pháp tuần hoàn.

– Hiện nay, các mô hình kinh tế tuần hoàn nào đang được triển khai tại Việt Nam? Theo ông, mô hình nào đang cho thấy hiệu quả rõ nét và có thể nhân rộng?

PGS. TS Đào Thế Anh: Tại Việt Nam, một số mô hình kinh tế tuần hoàn đã và đang được triển khai ở nhiều quy mô khác nhau. Trước hết phải kể đến mô hình VAC (vườn – ao – chuồng), vốn là hình thức sản xuất khép kín quen thuộc tại các hộ gia đình nông thôn. Tuy nhiên, trong bối cảnh sản xuất hiện đại, mô hình này đang được mở rộng theo hướng tích hợp quy mô lớn hơn, kết hợp giữa trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản trên nền tảng ứng dụng công nghệ.

Một mô hình khác đang phát triển mạnh là sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đây là dạng tuần hoàn sinh học, trong đó phụ phẩm như phân chuồng, rơm rạ, bã cà phê …được sử dụng để cải tạo đất, tạo vòng tuần hoàn khép kín, hạn chế tối đa việc sử dụng hóa chất. Những năm gần đây, các trang trại hữu cơ đạt tiêu chuẩn quốc tế đã xuất khẩu sản phẩm ra thị trường khó tính như châu Âu, Nhật Bản với giá trị cao.

Ngoài ra, tại vùng núi và trung du, mô hình nông lâm kết hợp cũng là một dạng kinh tế tuần hoàn hiệu quả. Nông dân trồng cây ăn quả, cây lâm nghiệp xen canh, kết hợp chăn nuôi đại gia súc để tận dụng không gian, tạo nguồn phân hữu cơ tại chỗ và giữ độ phì cho đất. Một số địa phương như Sơn La, Điện Biên đã phát triển vườn cà phê đa tầng, xen kẽ cây ăn trái và chăn nuôi, đồng thời kết hợp với du lịch nông nghiệp, tạo sinh kế đa dạng và ổn định.

Đáng chú ý, những mô hình này không chỉ giúp giảm phát thải khí nhà kính mà còn có tiềm năng tham gia thị trường tín chỉ carbon một hướng phát triển đầy triển vọng nếu Việt Nam xây dựng được hệ thống giám sát và chứng nhận minh bạch. Các mô hình nói trên đều thuộc tiếp cận nông nghiệp sinh thái với 13 nguyên tắc, mà chúng ta đang thực hiện để hướng tới phát triển bền vững nông nghiệp là hướng tới các hệ thống sản xuất kinh doanh tuần hoàn, đa giá trị.

– Việc triển khai kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp hiện nay đang gặp phải những rào cản gì? Đâu là nguyên nhân chính và điểm nghẽn cần tháo gỡ?

PGS. TS Đào Thế Anh: Rào cản lớn nhất chính là tư duy sản xuất. Trong nhiều thập niên, nông dân quen với cách làm nông theo hướng tuyến tính tức là đầu vào (đất, nước, giống, phân bón) tạo ra sản phẩm, sau đó chất thải bị bỏ đi hoặc đốt bỏ. Phụ phẩm nông nghiệp bị coi là phế thải, không có giá trị. Chính vì vậy, việc thay đổi nhận thức: “Phụ phẩm nông nghiệp là tài nguyên” là điều kiện tiên quyết để triển khai kinh tế tuần hoàn thành công.

Tiếp theo là vấn đề tổ chức sản xuất. Phần lớn nông hộ Việt Nam quy mô nhỏ, sản xuất phân tán, khó tổ chức thu gom và xử lý phụ phẩm một cách hiệu quả. Việc cơ giới hóa thu gom rơm, trấu, phân chuồng… đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn, trong khi giá trị kinh tế từ phụ phẩm chưa đủ hấp dẫn doanh nghiệp. Do đó, nếu không có sự vào cuộc của hợp tác xã hoặc liên kết chuỗi, việc triển khai mô hình tuần hoàn sẽ rất hạn chế.

Một yếu tố quan trọng khác là thiếu cơ chế thị trường rõ ràng. Người nông dân sẽ đặt câu hỏi: “Tôi làm nông nghiệp tuần hoàn để làm gì, ai mua, giá có cao hơn không?” Nếu không có hệ thống đánh giá, truy xuất, chứng nhận để chứng minh sản phẩm thân thiện môi trường, họ khó có động lực thay đổi.

Minh chứng là chương trình “1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp” tại Đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ kiểm soát quy trình canh tác phát thải khí nhà kinh thấp, Việt Nam đã xuất khẩu thành công lô gạo phát thải thấp sang Nhật và châu Âu với mức giá cao. Đây là tín hiệu tốt nhưng vẫn còn đơn lẻ. Để nhân rộng, cần hệ thống hỗ trợ bài bản từ nghiên cứu, hướng dẫn kỹ thuật đến kết nối thị trường.

– Từ những mô hình thành công trên thế giới, ông rút ra bài học nào cho Việt Nam trong việc xây dựng chuỗi giá trị nông nghiệp tuần hoàn, hiệu quả và bền vững?

PGS. TS Đào Thế Anh: Thế giới có nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn nông nghiệp rất đáng tham khảo. Ví dụ ở Trung Quốc, ngành cà phê được tổ chức theo chuỗi giá trị tuần hoàn rõ nét. Họ trồng cà phê không đơn canh mà kết hợp đa dạng sinh học, sử dụng phụ phẩm để sản xuất phân bón hữu cơ, đồng thời thu hồi nước thải trong sơ chế để tái sử dụng, vừa tiết kiệm tài nguyên vừa giảm ô nhiễm.

Châu Âu thì có những quy định pháp lý rất cụ thể về việc thu gom và xử lý chất thải chăn nuôi. Các trang trại không tự xử lý mà ký hợp đồng với các doanh nghiệp chuyên xử lý phân, sau đó chuyển thành phân hữu cơ bán lại cho nông dân. Đây là cách tiếp cận mang tính thị trường cao, giúp phân hóa rõ ràng vai trò giữa người sản xuất và nhà cung cấp dịch vụ môi trường.

Ngoài ra, một số quốc gia đã tận dụng rơm rạ để sản xuất ván ép, vật liệu xây dựng sinh thái hoặc sản phẩm thay thế gỗ tự nhiên. Đây là hướng đi giúp giảm áp lực lên rừng tự nhiên vốn đang bị khai thác quá mức ở nhiều nơi.

Từ các ví dụ đó, có thể rút ra ba bài học lớn cho Việt Nam. Thứ nhất, cần tổ chức sản xuất theo chuỗi, thay vì mạnh ai nấy làm. Thứ hai, công nghệ phải phù hợp với từng địa phương và khả năng đầu tư. Thứ ba, thị trường cả trong và ngoài nước phải công nhận và trả giá tương xứng cho các sản phẩm thân thiện môi trường. Nếu làm tốt ba yếu tố này, nông nghiệp tuần hoàn tại Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội phát triển.

– Theo ông, cần có những điều chỉnh gì trong chính sách và định hướng thể chế để triển khai hiệu quả Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đến năm 2030?

PGS. TS Đào Thế Anh: Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đến 2030 được Chính phủ phê duyệt năm 2024 là bước đi rất đúng hướng. Tuy nhiên, để biến đề án thành hiện thực, cần một hệ sinh thái chính sách đồng bộ hơn. Trước hết là đổi mới hệ thống khuyến nông. Việc tiếp cận công nghệ tuần hoàn cần được phổ cập đến từng nông hộ qua các chương trình đào tạo, mô hình trình diễn thực tế và tài liệu dễ hiểu.

Tiếp theo là cơ chế tài chính. Nhà nước nên xây dựng các quỹ tín dụng xanh, hỗ trợ doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư công nghệ tái chế, đồng thời khuyến khích các dự án đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực này. Các quỹ khoa học – công nghệ nên dành ngân sách riêng cho các sáng kiến kinh tế tuần hoàn.

Bên cạnh đó, truyền thông đóng vai trò rất quan trọng. Người tiêu dùng cần hiểu rằng mỗi lựa chọn sản phẩm xanh là một hành động tích cực góp phần thúc đẩy nông nghiệp bền vững. Doanh nghiệp cần được vinh danh nếu đi đầu trong tuần hoàn. Và người nông dân cần thấy được lợi ích cụ thể, kinh tế rõ ràng từ sự thay đổi của mình.

Cuối cùng, là xây dựng cơ chế chứng nhận carbon minh bạch. Nếu một mô hình sản xuất có thể chứng minh được lượng phát thải cắt giảm, thì hoàn toàn có thể tham gia thị trường tín chỉ carbon toàn cầu. Các cơ sở nghiên cứu cần tâp trung nghiên cứu các hệ thống Theo dõi-Báo cáo-Kiểm chứng (MRV) khả thi, phù hợp với các loại mô hình kinh tế tuần hoàn để có thể minh bạch hóa các tác động đến môi trường. Khi đó, nông nghiệp tuần hoàn không chỉ vì môi trường, mà còn vì hiệu quả kinh tế rõ ràng thông qua các giá trị môi trường mã xã hội yêu cầu, tạo ra thu nhập bổ sung cho nông dân và doanh nghiệp.

Theo GreenFi VietNam

Bài viết liên quan