Việc sớm triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ và việc chuyển đổi sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thích ứng với với những tiêu chuẩn xanh không chỉ giúp doanh nghiệp giữ vững thị phần, còn tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường Anh.
Tuy nhiên, hàng xuất khẩu Việt Nam cũng đối mặt nhiều thách thức khi Anh có yêu cầu rất cao về sản phẩm xanh, cắt giảm phát thải trong quá trình sản xuất, không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, tuân thủ nghiêm ngặt về lao động, môi trường, tiết kiệm tài nguyên… Theo nhận định của các chuyên gia, để tận dụng tốt hơn ưu đãi từ FTA song phương, doanh nghiệp Việt buộc phải chú ý tới thương mại xanh và công bằng hiện đang là xu hướng phát triển tất yếu của thương mại toàn cầu.
Thách thức tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp
Nhận định Việt Nam có những lợi thế về phát triển những sản phẩm xanh, ông Nguyễn Cảnh Cường – Nguyên Tham tán công sứ Thương vụ Việt Nam tại Vương quốc Anh cho biết, yêu cầu từ thị trường Anh sẽ là thách thức song cũng trở thành cơ hội và những doanh nghiệp Việt Nam có khả năng chuyển đổi hay tăng tỷ lệ các sản phẩm xanh và chuyển đổi sản xuất của mình theo hướng xanh hơn, sạch hơn, ít phát thải hơn thì sẽ được các bạn hàng ở Vương quốc Anh hoan nghênh hơn.
Thời gian qua, Việt Nam đã có sự chuẩn bị rất chủ động, tích cực và đã có những bước đi khá rõ nét để hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu về kinh tế xanh, thương mại xanh của thị trường xuất khẩu nói chung, và thị trường Anh nói riêng. TS. Lê Huy Huấn, Điều phối viên Chương trình Tăng trưởng Xanh và biến đổi khí hậu toàn cầu Việt Nam (CCG Việt Nam) cho rằng, Việt Nam đã và đang xây dựng nhiều những chính sách hướng đến chuyển đổi xanh, phục vụ cho cả quá trình thương mại xanh.
“Đơn cử như dệt may – một trong lĩnh vực chịu áp lực rất lớn về việc phải giảm phát thải để đáp ứng các tiêu chuẩn các thị trường quốc tế. Nhưng bằng sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhiều doanh nghiệp dệt may đã có sự chuyển đổi trong quy trình sản xuất và tạo ra sản phẩm sử dụng các loại vải tái chế, sợi vải tái chế, quá trình nhuộm dùng ít nước đi hoặc không dùng đến nước.. Các doanh nghiệp khác cũng có sự chủ động nhất định thông qua việc chủ động đào tạo, tăng cường năng lực cho doanh nghiệp tham gia vào để đạt được các tiêu chuẩn quốc tế”, ong Huấn cho hay.
Hệ sinh thái liên kết giữ vững thị phần
Trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã triển khai một loạt các biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp, theo hướng thúc đẩy thương mại xanh và phát triển bền vững. Trong đó, tập trung hỗ trợ phát triển mối quan hệ giữa thương mại với lao động, hay các yếu tố khác về phát triển bền vững để giúp doanh nghiệp có thể nắm bắt được một cách cụ thể hơn, đầy đủ hơn và chính xác hơn những cam kết đã có được từ các FTA, từ đó giúp doanh nghiệp tận dụng được tốt hơn những cam kết để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước ngoài.
Theo bà Nguyễn Sơn Trà, Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), đối với việc hỗ trợ doanh nghiệp trong quy trình sản xuất để đáp ứng được các yêu cầu ngày càng khắt khe từ các thị trường nước ngoài, đặc biệt các thị trường phát triển như Vương quốc Anh, Bộ Công Thương cũng đang xây dựng mô hình hệ sinh thái theo từng ngành.
“Trong hệ sinh thái này sẽ có mối liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan xây dựng chính sách thương mại và các cơ quan cung cấp thông tin. Hệ sinh thái cũng sẽ có những trao đổi, chia sẻ thông tin, hỗ trợ lẫn nhau theo từng lĩnh vực. Điều này tạo ra một sức mạnh lớn, là bàn đạp vững chắc để giúp doanh nghiệp có thể tự tin hơn trong việc đem hàng hóa ra thị trường quốc tế, bảo đảm đáp ứng được các tiêu chuẩn, các yêu cầu về thương mại và phát triển bền vững sang các thị trường nước ngoài”, bà Trà cho biết.
Việc sớm triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ và việc chuyển đổi sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thích ứng với với những tiêu chuẩn xanh không chỉ giúp doanh nghiệp giữ vững thị phần, còn tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường Anh, sau đó mở rộng sang các thị trường lớn, trọng điểm khác.
Vì vậy, các cơ quan quản lý cần phải hành động sớm, có những hướng dẫn thống nhất và đánh giá phù hợp, có những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi. Về phần mình, các doanh nghiệp cần phải chủ động thay đổi tư duy chuyển đổi sản xuất theo hướng phát triển xanh và bền vững, tận dụng cơ hội phát triển sản phẩm đáp ứng thương mại xanh, từ đó giữ vững lợi thế từ Hiệp định UKVFTA.