Nguồn thu từ Thỏa thuận giảm phát thải đang góp phần cải thiện sinh kế cho người dân miền núi tại Quảng Trị, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ rừng tự nhiên, từ đó mở cơ hội tiềm năng tạo tín chỉ carbon từ rừng…
Quảng Trị là một trong những địa phương được hưởng lợi từ Thỏa thuận giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA)- Chương trình chi trả tín chỉ carbon rừng mang tính toàn cầu.
NHỮNG GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ HIỆU ỨNG XÃ HỘI TÍCH CỰC TỪ BẢO VỆ RỪNG
Việc thực hiện ERPA trên địa bàn thời gian qua đã trở thành động lực thúc đẩy công tác bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa, nơi sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Quảng Trị, tổng thu từ ERPA tính đến ngày 30/6/2025 đạt hơn 364,9 tỷ đồng. Trong đó, tổng số tiền đã chi trả cho các đối tượng hưởng lợi là hơn 326,7 tỷ đồng, đạt 89,68% trên tổng số tiền đã nhận. Cụ thể, tỉnh Quảng Bình (cũ) đã giải ngân hơn 271,4 tỷ đồng, đạt 90,78%; tỉnh Quảng Trị (cũ) giải ngân hơn 55,3 tỷ đồng, đạt 84,63%.
Việc triển khai chi trả tín chỉ carbon không chỉ dừng lại ở con số giải ngân lớn mà còn tạo ra hiệu ứng xã hội sâu rộng. Tại các đơn vị chủ rừng là tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã và các tổ chức khác, lũy kế đến ngày 30/6/2025, tổng số tiền đã giải ngân là hơn 52,2 tỷ đồng, đạt 17,66%. Dự kiến trong 6 tháng cuối năm 2025, số tiền sẽ giải ngân thêm tại nhóm này lên tới hơn 105 tỷ đồng.
Nguồn kinh phí từ ERPA không chỉ hỗ trợ quản lý rừng mà còn trực tiếp tạo thu nhập cho cộng đồng dân cư, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi Quảng Trị.
Điển hình như ở Hướng Hóa và Đakrông, nơi có tới 96.000 ha rừng tự nhiên, việc chi trả từ ERPA đã mang lại thu nhập ổn định cho các hộ dân. Cụ thể, hơn 60 cộng đồng, nhóm hộ dân tộc thiểu số đang quản lý 12.300 ha rừng tự nhiên đã được chi trả hơn 1,5 tỷ đồng; hơn 80 hộ gia đình quản lý 557 ha rừng tự nhiên được chi trả hơn 70 triệu đồng.
Cùng với đó mỗi năm, tại đây có 47 cộng đồng được hỗ trợ thêm 50 triệu đồng/cộng đồng để tự quyết định các hoạt động phát triển sinh kế như: sửa chữa nhà cộng đồng, lắp điện chiếu sáng, mua vật nuôi. Qua đó, cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng nông thôn và các công trình công cộng thiết yếu.
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH ĐIỀU TRA RỪNG TOÀN TỈNH, ĐÁNH GIÁ SINH KHỐI VÀ TRỮ LƯỢNG CARBON
Ông Hồ Văn Chiến ở xã Hướng Phùng là một trong những người tiên phong tham gia công tác giữ rừng ở vùng biên giới. Ông cùng bà con thôn Chênh Vênh đã duy trì việc tuần tra bảo vệ 600 ha rừng tự nhiên suốt 8 năm qua. Các thành viên Ban quản lý rừng cộng đồng, chủ yếu là người dân tộc Vân Kiều, tự nguyện lập 6 tổ tuần tra, hoạt động đều đặn mỗi tháng với 3 đợt tuần rừng/tổ, nhằm kiểm soát tình trạng xâm phạm rừng.
“Khi mới bắt đầu, ai cũng nghĩ chỉ là giữ rừng vì trách nhiệm. Nhưng từ khi biết giữ rừng còn mang lại thu nhập từ tín chỉ carbon thì bà con phấn khởi hơn hẳn,” ông Chiến chia sẻ. Việc được chi trả từ tín chỉ carbon không chỉ có thêm nguồn thu nhập, mà còn tạo ra động lực cụ thể để người dân nâng cao ý thức giữ rừng, chống chặt phá trái phép.
Thực tế, rừng cộng đồng của thôn Chênh Vênh hiện phát triển xanh tốt, nhiều cây có đường kính lớn, nhiều loài thú quý hiếm từng biến mất đã dần quay trở lại sinh sống. “Trước kia, chúng tôi đâu biết giữ rừng là có thể mang lại thu nhập. Bây giờ, ai cũng hiểu, giữ rừng là giữ chính cuộc sống của mình và con cháu,” ông Chiến cho biết thêm.
Theo ngành Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị, phát triển thị trường carbon và hoàn thiện các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon là giải pháp quan trọng nhằm hiện thực hóa mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính với chi phí hợp lý, tăng tính cạnh tranh cho nền kinh tế xanh.
Thời gian tới, Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch điều tra rừng toàn tỉnh, tập trung đánh giá sinh khối và trữ lượng carbon theo chỉ đạo của Bộ. Mục tiêu nhằm xác định cụ thể tổng trữ lượng carbon theo từng loại rừng và từng hệ sinh thái để làm cơ sở dữ liệu cho các chương trình trao đổi tín chỉ carbon với quốc tế.
Bên cạnh đó, Quảng Trị sẽ tiếp tục tăng cường bảo vệ diện tích rừng đặc dụng, phòng hộ và rừng tự nhiên, triển khai chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững, thúc đẩy trồng rừng gỗ lớn và cấp chứng chỉ rừng. Đồng thời hạn chế suy thoái rừng và giảm thiểu mất rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và nâng cao hiệu quả phòng hộ rừng.