07/08/2025

Nghịch lý tín chỉ carbon: Có ‘tài sản’ không thể bán, có người mua không thể giao dịch

Thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam đang bị tắc nghẽn khi không được phép bán dù đã đo đạc xong tín chỉ carbon từ rừng. Không có thị trường để giao dịch dù có nhà đầu tư tìm đến. Trong khi đó, những cộng đồng âm thầm giữ rừng và canh tác giảm phát thải lại đang thiếu nguồn lực và cơ hội tham gia.

Thị trường chưa mở, thể chế chưa thông

TS. Lê Xuân Nghĩa – Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển (CODE) kể lại trải nghiệm trực tiếp: khu sinh quyển 300 ha rừng tự nhiên do đơn vị của ông quản lý đã hoàn tất đo đạc, xác minh tín chỉ carbon, có đối tác nước ngoài sẵn sàng mua và thậm chí đã đặt cọc. Thế nhưng, việc bán không thể tiến hành.

“Tôi lên làm việc với Phó Thủ tướng và được trả lời rằng không được phép bán tín chỉ ra nước ngoài. Phải đợi đến năm 2029.” ông Nghĩa kể.

Vấn đề nằm ở Quyết định 232 của Chính phủ, quy định rằng việc bán tín chỉ carbon ra quốc tế cần phải được Thủ tướng phê duyệt – nhằm đảm bảo Việt Nam còn đủ tín chỉ cho thị trường trong nước. Cụ thể, lo ngại lớn là các ngành như hàng không – sẽ bắt đầu chịu ràng buộc giảm phát thải từ năm 2027 sẽ thiếu tín chỉ để bù trừ.

TS. Nghĩa phản biện: “Chúng ta đang ưu tiên cho các hãng hàng không – những doanh nghiệp hiện đại và giàu có. Trong khi đó, hàng triệu người dân tộc thiểu số đang giữ rừng thì không được bán thứ họ đang bảo vệ. Họ không có tiền ăn học, chữa bệnh – vậy ai lo cho họ?”

Theo PGS.TS Nguyễn Đình Thọ – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường – thị trường carbon tại Việt Nam hiện vẫn chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, chưa thực sự vận hành.

“Chúng ta chưa có hệ thống giao dịch, chưa có định danh hàng hóa, chưa có tổ chức vận hành thị trường. Muốn giao dịch quốc tế theo Điều 6.2 của Thỏa thuận Paris, cần có thư ủy quyền từ Chính phủ, nhưng đến nay vẫn chưa cấp được,” ông Thọ phân tích.

Thêm vào đó, những công cụ kỹ thuật quan trọng như MRV (đo lường – báo cáo – xác minh) lại nằm ngoài tầm với của người dân và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện chỉ có các tập đoàn lớn như Vinamilk hay TH True Milk mới đủ khả năng thuê đơn vị thực hiện MRV đạt chuẩn.

Điều này dẫn tới một nghịch lý: những cộng đồng đang giữ rừng và trồng lúa phát thải thấp – vốn là những tác nhân thực tế của hành trình Net Zero – lại không thể tiếp cận thị trường khiến người dân bị bỏ lại phía sau.

“Không có thông tin, không có cơ chế, không có phần mềm hay nền tảng chia sẻ – thì làm sao người dân tham gia được?”, ông Thọ đặt câu hỏi.

Ông Phạm Hồng Lượng – Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT – cho biết Dự thảo Nghị định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng đang được hoàn thiện, với 18 điều cụ thể. Nghị định này sẽ định danh các chủ thể cung ứng (hộ dân, cộng đồng, chủ rừng), quy trình đo đạc – thẩm định – chi trả, cũng như quy định sử dụng tài chính nhận được từ tín chỉ.

Một điểm tiến bộ là Dự thảo cho phép các Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng được giữ lại 10% tiền dịch vụ để chi cho hoạt động kỹ thuật như đo đạc, kiểm kê, báo cáo – giúp giảm gánh nặng cho chủ rừng nhỏ lẻ.

Tuy nhiên, vấn đề là khả năng triển khai thực tế. Ông Lượng cũng thừa nhận, việc đo đạc hấp thụ carbon của rừng rất phức tạp, phải dựa vào các công thức chuẩn quốc tế (như phương trình allometric, ứng dụng ảnh vệ tinh, viễn thám…), và cần đơn vị độc lập xác minh. Đây là điều mà hộ gia đình, thậm chí cả hợp tác xã cũng khó làm được nếu không có cơ chế hỗ trợ cụ thể.

Cần chính sách mới cho một thị trường mới

Theo bà Betty Palard – Đồng sáng lập Ủy ban Tài chính Bền vững EuroCham, muốn xây dựng thị trường tín chỉ hiệu quả, Việt Nam cần thay đổi góc nhìn:

“Tín chỉ carbon không chỉ là con số kỹ thuật. Chúng ta cần kể được một câu chuyện có chiều sâu văn hóa, xã hội, sinh thái phía sau mỗi tín chỉ.”

Bà Betty cho rằng Việt Nam nên tập trung vào tín chỉ “xanh lá cây” – tức tín chỉ từ rừng, nông nghiệp – thay vì chỉ chạy theo “tín chỉ xanh dương” vốn khó đo đạc và kiểm kê (như vùng biển, rừng ngập mặn). Bà cũng nhấn mạnh đến khái niệm “tài chính chuyển đổi” (transition finance), tức là đầu tư vào các mô hình vừa giảm phát thải, vừa bảo vệ văn hóa, sinh kế của cộng đồng dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa.

 

Câu chuyện kỹ sư Hồ Quang Cua – người phát triển giống gạo ST25 là minh chứng sống động cho nhận định trên. Ông Cua không bắt đầu từ carbon, mà từ khát vọng tạo ra hạt gạo ngon, sạch, giảm chi phí cho nông dân.

“Lúc làm mô hình canh tác tuần hoàn, chúng tôi chưa nghĩ tới carbon. Nhưng giờ mới thấy rõ, việc rút nước giữa mùa giúp giảm khí methane, giảm mùi hôi, tăng vi sinh vật có lợi – và từ đó làm gạo thơm ngon hơn,” ông Cua chia sẻ tại diễn đàn.

Vùng lúa – tôm Cà Mau đang có hơn 150.000 ha trồng giống ST24, ST25 theo mô hình tuần hoàn, đáp ứng tiêu chí giảm phát thải.

Tuy nhiên, theo ông Cua, bà con vẫn chưa biết gì về thị trường carbon. Và nếu không có sự đồng hành từ các tổ chức khoa học và doanh nghiệp, thì tiềm năng tín chỉ từ vùng lúa này sẽ mãi chỉ nằm trên giấy.

Tại Tọa đàm Net Zero 2025, các chuyên gia nhận định, Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển thị trường tín chỉ carbon – đặc biệt từ rừng và nông nghiệp. Nhưng để khai phá tiềm năng đó, cần một loạt điều kiện: thể chế rõ ràng, cơ chế ủy quyền sớm theo Điều 6.2, hệ thống MRV dễ tiếp cận, nền tảng số mở và đặc biệt là sự công nhận vai trò của cộng đồng cơ sở.

“Chúng ta không thể tiếp tục tư duy cũ là lo giữ tín chỉ cho doanh nghiệp lớn mà quên đi 14 triệu người dân tộc thiểu số đang gìn giữ rừng,” TS. Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh.

Theo GreenFi VietNam

Bài viết liên quan