Chính phủ đã có những quyết sách nhanh chóng, kịp thời, linh hoạt với việc tung ra các gói hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường đầu tư công, cải thiện môi trường kinh doanh, ổn định an sinh xã hội. Những quyết sách đúng đắn đó đã được phúc đáp lại bằng những thành quả quan trọng.
Đây là quan điểm của ông Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội khi trao đổi với Báo điện tử Chính phủ về những quyết sách trong chỉ đạo điều hành của Chính phủ để khắc phục khó khăn cho doanh nghiệp và người lao động, bảo đảm an sinh xã hội. Ông Bùi Sỹ Lợi cũng đưa ra những quan điểm và góp ý để xây dựng hệ thống an sinh xã hội hiệu quả, thiết thực, bao trùm, toàn diện.
Quyết sách nhanh chóng, kịp thời, linh hoạt
Hậu quả của đại dịch COVID-19 vẫn còn kéo dài đến năm 2023, làm cho thị trường lao động, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống nhân dân bị ảnh hưởng nặng nề. Trong bối cảnh đó, những quyết sách của Chính phủ có ý nghĩa như thế nào trong việc khắc phục khó khăn cho doanh nghiệp và người lao động, bảo đảm an sinh xã hội, thưa ông?
Ông Bùi Sỹ Lợi: Đại dịch COVID-19 diễn ra từ cuối năm 2019 đến nay, gây ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng, kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động không nhỏ. Tác động này ảnh hưởng cả đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp khiến đơn hàng sụt giảm, cạnh tranh gia tăng, gây khó khăn cho cả doanh nghiệp đang hoạt động và sự hình thành của các doanh nghiệp mới.
Tuy nhiên, Chính phủ đã có những quyết sách nhanh chóng, kịp thời, linh hoạt với việc tung ra các gói hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường đầu tư công, cải thiện môi trường kinh doanh, ổn định an sinh xã hội.
Ngay từ đầu năm, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 10/1/2023 về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập nhằm phục hồi nhanh kinh tế – xã hội. Nhiều biện pháp tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động bị giảm sâu thu nhập, mất, thiếu việc làm do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, kinh doanh.
Quan điểm xuyên suốt của Chính phủ là khai thác tối đa thị trường trong nước, đồng thời phòng ngừa, ứng phó với các bất ổn từ bên ngoài, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, sinh kế, việc làm, đời sống đối với người lao động, người nghèo, người yếu thế là những nội dung hết sức cần thiết có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc khắc phục khó khăn cho doanh nghiệp và người lao động, bảo đảm an sinh xã hội.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong 9 tháng năm 2023, dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng vẫn có trên 165.000 doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, trong đó đa số là doanh nghiệp thành lập mới (trên 116.000 doanh nghiệp). Điều đó cho thấy quyết tâm chính trị của Chính phủ trong việc phục hồi và phát triển doanh nghiệp, đây là một kết quả đáng ghi nhận khi đặt trong bối cảnh quốc tế, trong nước có rất nhiều khó khăn, biến động.
Vấn đề có tính chất quyết định là Chính phủ tiếp tục thúc đẩy tăng cầu, đẩy nhanh tiến độ đầu tư công và tập trung ưu tiên xuất khẩu là những đột phá chiến lược. Mục tiêu là tập trung tìm mọi biện pháp để phục hồi và tăng trưởng cầu, thúc đẩy cung phát triển, tạo động lực tăng trưởng và phát triển xã hội nhằm bảo đảm việc làm, ổn định đời sống nhân dân.
Những quyết sách đúng đắn của Chính phủ đã được phúc đáp lại bằng những thành quả quan trọng.
Ví dụ như, trong 6 tháng đầu năm nay, lao động có việc làm vẫn tăng 902.000; theo đó số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động cũng giảm 192.200 người; tỉ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,27%, giảm 0,12 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Nhu cầu tuyển dụng lao động của doanh nghiệp trong các tháng đầu năm vẫn cao hơn so với số lao động bị mất việc, thôi việc. Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, lao động có việc làm 6 tháng đầu năm 2023 trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 13,8 triệu người, chiếm 27%, giảm 5,77 điểm % so với năm 2020. Thu nhập bình quân của lao động là 7 triệu đồng/tháng, tăng 7,6%, tương ứng tăng 497.000 đồng so với cùng kỳ năm trước.
Thành tựu đạt được trong 9 tháng đầu năm của nước ta được các tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất khu vực, thế giới. Cùng với đó, Việt Nam vẫn được đánh giá là quốc gia có nhiều tiềm năng thu hút FDI, đặc biệt trong xu thế chuyển dịch cơ cấu, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, sản xuất hiện nay.
Chính phủ đã đầu tư ngày càng nhiều cho việc thực hiện các chính sách xã hội
Trong phiên thảo luận kinh tế – xã hội tại Kỳ họp thứ 5, có ý kiến của đại biểu Quốc hội cho rằng, Chính phủ cần nghiên cứu, triển khai xây dựng quỹ dự phòng an sinh xã hội với tầm nhìn dài hạn nhằm hỗ trợ người lao động mất việc làm, ứng phó với những khó khăn, rủi ro đột ngột. Ông có thể phân tích cụ thể hơn và quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Ông Bùi Sỹ Lợi: Quan điểm của cá nhân tôi, không nhất thiết phải xây dựng dựng quỹ dự phòng an sinh xã hội. Chính phủ có thể tiếp tục xây dựng các quỹ cứu trợ xã hội nhiều cấp độ để hỗ trợ kịp thời cho người dân khi bị rủi ro; xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, gia đình, cộng đồng tham gia trợ giúp khẩn cấp, lồng ghép trợ giúp khẩn cấp với các đề án, chương trình, chính sách liên quan ở các vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lụt, tác động của biến đổi khí hậu, có sự hỗ trợ của Nhà nước; xây dựng cơ chế quản lý, đưa các hoạt động từ thiện, thiện nguyện vào khuôn khổ.
Chúng ta đã biết, hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam được xây dựng dựa trên nguyên lý quản lý rủi ro, đồng thời nhấn mạnh vai trò cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, bao gồm 4 trụ cột: Phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục rủi ro và bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản.
Đối với khu vực có quan hệ lao động đã được pháp luật quy định các quỹ BHXH ngắn hạn như: Quỹ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; đặc biệt, quỹ bảo hiểm thất nghiệp phát huy vai trò “bà đỡ” hỗ trợ doanh nghiệp duy trì việc làm bền vững cho người lao động, chủ động phòng ngừa, giảm thiểu thất nghiệp, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp; chú trọng đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, nâng cao hiệu quả tư vấn, giới thiệu việc làm cho lao động thất nghiệp và chi trả trợ cấp thất nghiệp. Trong đại dịch COVID-19, hơn 38.000 tỷ đồng từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã được chi để hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động.
Chính sách trợ giúp xã hội được thiết kế hướng vào mục tiêu bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng theo vòng đời nhằm phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục các rủi ro của con người trong suốt cuộc đời với nguồn lực từ ngân sách Nhà nước, sự đóng góp của doanh nghiệp, xã hội và người dân, cùng với các quỹ từ thiện nhân đạo hỗ trợ. Số người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tăng lên hằng năm, trong đó người hưởng trợ cấp tiền mặt hằng tháng tăng từ 2,374 triệu năm 2012, lên 3,149 triệu người (bao phủ hơn 3% dân số) năm 2020; đạt 3,3 triệu người năm 2022 (chiếm 3,5% dân số), trong đó người cao tuổi không có lương hưu và trợ cấp xã hội là 1,88 triệu người (chiếm 57%), đối tượng bảo trợ xã hội khác là 1,42 triệu người.
Để khắc phục hậu quả đại dịch COVID-19 và phục hồi kinh tế, Trung ương và địa phương đã dành hơn 120.000 tỷ đồng và trên 200.000 tấn gạo thực hiện các chính sách hỗ trợ cho gần 1 triệu lượt người sử dụng lao động, hơn 68,67 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác (tính đến cuối năm 2022). Đây là lần đầu tiên Việt Nam chăm lo an sinh cho số lượng người dân lớn nhất và các chính sách đã được triển khai tương đối thành công.
Trong thực tiễn của đất nước, Chính phủ đã đầu tư ngày càng nhiều cho việc thực hiện các chính sách xã hội, thông qua việc điều chỉnh các mức hưởng, diện đối tượng hưởng và cả số lượng chính sách.
Tỉ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội tăng dần trong các năm qua, từ 2,85% GDP năm 2005 lên 4,14% GDP năm 2010 và 4,67% GDP năm 2011 và khoảng 6,7% GDP năm 2021. Mặc dù đây vẫn là mức thấp so với quốc tế, song cũng là một nỗ lực đối với Việt Nam. Bên cạnh vốn ngân sách Nhà nước, nhiều nguồn lực khác đã được huy động cho công cuộc giảm nghèo, như vốn ODA, đóng góp của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và tư nhân. Trong thực tế đã xuất hiện ngày càng nhiều những mô hình hợp tác công tư trong giảm nghèo và bảo trợ xã hội.
Hình thành hệ thống an sinh xã hội theo hướng đa tầng, hiện đại
Tại Việt Nam, hệ thống an sinh xã hội được hình thành từ các trụ cột cơ bản, bao gồm giảm nghèo bền vững; đào tạo nghề, lao động, việc làm; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các loại bảo hiểm khác; bảo trợ xã hội và các dịch vụ xã hội cơ bản. Vậy, các chính sách an sinh xã hội cần được thiết kế như thế nào để bảo đảm giữ vững và phát triển hài hòa các trụ cột, thưa ông?
Ông Bùi Sỹ Lợi: Như chúng ta đa biết, hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam bao gồm 4 nhóm chính sách (trụ cột). Thứ nhất là phòng ngừa rủi ro bao gồm: Việc làm, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo nhằm hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro thông qua tham gia thị trường lao động để có việc làm tốt, bảo đảm thu nhập và giảm nghèo bền vững. Thứ hai là giảm thiểu rủi ro, nhằm hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro khi bị ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già…thông qua tham gia vào hệ thống BHXH, BHYT để chủ động bù đắp phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro nêu trên. Thứ ba là khắc phục rủi ro, bao gồm chính sách trợ giúp thường xuyên và trợ giúp đột xuất nhằm hỗ trợ người dân khắc phục các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát (mất mùa, đói, nghèo kinh niên, thảm họa). Thứ tư là các dịch vụ xã hội cơ bản nhằm tăng cường cho người dân khả năng tiếp cận hệ thống dịch vụ cơ bản ở mức tối thiểu, bao gồm giáo dục cơ bản, y tế cơ bản, nhà ở tối thiểu, nước sạch và thông tin truyền thông. Hệ thống ASXH được hình thành theo hướng đa tầng, hiện đại, thích ứng, linh hoạt, nhằm bảo đảm bao trùm, bền vững và công bằng.
Do đó, các chính sách an sinh xã hội cần được thiết kế theo hướng tập trung quản lý phát triển xã hội hiệu quả, nghiêm minh, đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội cho toàn dân. Trong đó cần tập trung: Thể chế hóa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và gắn kết xã hội. Xây dựng các định mức chi tiêu xã hội, xây dựng chuẩn an sinh xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước giai đoạn, ngày càng tiếp cận các chuẩn mực quốc tế.
Bên cạnh đó, cần thực hiện cải cách và hoàn thiện thể chế, chính sách an sinh xã hội theo hướng chủ động, tích hợp, có sự điều phối và liên kết giữa các hợp phần bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội và việc làm; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo trong hệ thống an sinh xã hội, nhất là trong các quy trình nghiệp vụ an sinh xã hội.
Mặt khác, cần xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, phổ quát và hiện đại, bảo đảm cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu có chất lượng tốt cho nhân dân, nhất là về nhà ở, y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội thiết yếu khác; phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập quốc tế; chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển việc làm bền vững, tạo điều kiện để mọi người dân phát huy tiềm năng, phát triển toàn diện và có thu nhập trung bình cao so với người dân các nước trên thế giới; hướng đến mọi người dân được bảo đảm an sinh xã hội, có thu nhập cao.
Cùng với đó, cần nâng cao năng lực giám sát và đánh giá, tăng cường năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước về an sinh xã hội để thay đổi cách tiếp cận hướng tới khách hàng và tăng cường cung cấp dịch vụ dựa vào sự tiến bộ của công nghệ, cũng như quản lý mối quan hệ hợp đồng công tư.
Ông có thể phân tích cụ thể hơn về việc cần thiết phát triển an sinh xã hội theo hướng đa tầng thực sự, nhằm khắc phục tình trạng diện bao phủ thấp, mức hưởng thấp, chênh lệch giới trong thực hiện chính sách an sinh?
Ông Bùi Sỹ Lợi: Tôi đồng tình và đánh giá cao quan điểm Việt Nam tiếp tục xây dựng, phát triển an sinh xã hội là đúng quy luật, nhằm từng bước tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế về an sinh xã hội, coi an sinh là quyền của con người theo hiến định, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, thể hiện tính ưu việt của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta lựa chọn.
Do đó, tập trung phát triển hệ thống an sinh xã hội theo hướng đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ,… bảo đảm bền vững, công bằng là xu hướng tất yếu và sẽ khắc phục được tình trạng diện bao phủ thấp, mức hưởng thấp, chênh lệch giới trong thực hiện chính sách an sinh.
Tôi cho rằng, để hệ thống an sinh phát triển theo hướng đa dạng, đa tầng, trước hết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về an sinh xã hội để có thể thích ứng với các tình huống bất trắc xảy ra do dịch, bệnh, biến đổi khí hậu… Tiếp theo, chúng ta cần tiếp tục tăng cường hiệu quả các chính sách an sinh xã hội hiện hành và hướng tới hệ thống an sinh nhằm ứng phó linh hoạt với các “cú sốc” trên diện rộng. Cùng với đó, cần phát triển hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Theo Báo Chính Phủ