Không chỉ đảm bảo an ninh lương thực, Việt Nam ngày càng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng xanh, với các mặt hàng xuất khẩu tỷ đô đáp ứng tiêu chuẩn toàn cầu.
Theo ông Tô Việt Châu, Phó vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 30 năm gia nhập ASEAN, ngành nông nghiệp Việt Nam đã có bước chuyển mình lớn.
Từ một quốc gia thiếu hụt lương thực trở thành nước đảm bảo an ninh lương thực và là một trong những nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về gạo, cà phê, hạt điều, trái cây nhiệt đới và thủy sản, với mỗi ngành kim ngạch trên 1 tỷ USD; đóng góp 12% GDP cả nước, tạo việc làm cho gần 40% lực lượng lao động và là sinh kế của hơn 60% dân cư nông thôn…
Ông Châu khẳng định rằng phát triển nông nghiệp bền vững là ưu tiên hàng đầu của ASEAN, thể hiện qua các sáng kiến như Tuyên bố Lào 2024 và Kế hoạch hành động khu vực về thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), hydrogen để chuyển đổi xanh và giảm phát thải khí nhà kính.
“Việt Nam đã chủ động đóng vai trò khởi xướng và xây dựng Khung an ninh lương thực ASEAN (AIFS) và Kế hoạch hành động chiến lược về an ninh lương thực (SPA-FS) 2021 – 2025. Điều này tạo nền tảng hợp tác toàn diện về phát triển chuỗi giá trị, quản lý nước và nâng cao khả năng thích ứng biến đổi khí hậu”, ông Châu nói.
PGS.TS Đào Thế Anh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, cho biết nước ta đã đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng Khung An ninh lương thực ASEAN (AIFS) và Kế hoạch hành động SPA-FS 2021–2025, đồng thời thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái nhằm thích ứng biến đổi khí hậu.
Một ví dụ điển hình là mô hình lúa – tôm tại tỉnh Bạc Liêu, với diện tích canh tác tăng từ 5.800 ha năm 2001 lên hơn 41.500 ha vào năm 2023, vừa mang lại hiệu quả kinh tế, vừa bảo vệ hệ sinh thái vùng ven biển.
Theo ông Nguyễn Trung Hiếu, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bạc Liêu, mô hình này là minh chứng cho hướng đi bền vững của nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Không chỉ tăng trưởng về sản lượng và xuất khẩu, nông nghiệp Việt Nam cũng từng bước tích hợp vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Các doanh nghiệp Việt đã bắt đầu ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số và truy xuất nguồn gốc sản phẩm để đáp ứng yêu cầu của các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ.
Theo bà Lê Thị Mai Anh, Trưởng phòng Đông Nam Á – Nam Á (Bộ Công Thương), ASEAN là thị trường xuất khẩu nông sản lớn thứ hai của Việt Nam, chiếm hơn 10% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Việc hưởng lợi từ các FTA nội khối, như Hiệp định ATIGA, đã giúp nông sản Việt có sức cạnh tranh hơn thông qua việc miễn, giảm thuế và hài hòa tiêu chuẩn chất lượng.
Dù vậy, theo các chuyên gia, Việt Nam vẫn đối diện nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, suy thoái tài nguyên, năng lực logistics và khoảng cách công nghệ giữa các địa phương. Để giữ vững vị thế trong ASEAN, ngành nông nghiệp cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác khu vực, phát triển nông nghiệp xanh – tuần hoàn – công nghệ cao và đảm bảo sinh kế cho người nông dân trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Từ cánh đồng truyền thống, nông nghiệp Việt Nam đang vươn lên trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng xanh, bền vững của khu vực ASEAN.
Theo đó, ông Tô Việt Châu, Phó vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẳng định Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên và khoảng cách công nghệ giữa các quốc gia ASEAN. Điều này đòi hỏi hợp tác liên ngành mạnh mẽ hơn, cùng định hướng phát triển nông nghiệp sinh thái, công nghệ cao, phát thải thấp và tích hợp đa giá trị bền vững.
Để duy trì và mở rộng thành quả đã đạt được, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng nông nghiệp theo hướng xanh, tuần hoàn và phát thải thấp. Cùng với đó là đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, cải thiện năng lực quản trị và đào tạo nhân lực cho nông thôn.