Chuyên gia từ Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam, cho biết sàn giao dịch tín chỉ carbon bắt buộc là điều hết sức cần kíp trong chiến lược môi trường quốc gia.
Tiến sĩ Phạm Nguyễn Anh Huy (giảng viên cấp cao ngành Tài chính) và Tiến sĩ Samuel Buertey (quyền Phó chủ nhiệm bộ môn Kế toán và Luật) đề xuất chiến lược quản lý thị trường tín chỉ carbon đang nổi ở Việt Nam và dùng lợi nhuận có được từ hoạt động mua bán tín chỉ nhằm thúc đẩy bền vững về môi trường.
Thị trường carbon là một thị trường tài chính đặc thù nơi tín chỉ carbon có thể mua bán. Tín chỉ carbon là giấy phép hay hạn ngạch phát thải cho phép chủ sở hữu/người mua thải ra một lượng nhất định carbon hoặc các loại khí thải nhà kính khác (thường tương đương với một tấn) vào môi trường. Thị trường carbon bao gồm hai loại bắt buộc và tự nguyện.
Tiến sĩ Huy cho biết để thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 và cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam cần phải thiết lập sàn giao dịch tín chỉ carbon bắt buộc.
“Sàn giao dịch tín chỉ carbon bắt buộc thưởng cho các công ty thật sự nỗ lực cắt giảm phát thải bằng cách cho phép họ bán tín chỉ dư thừa, đồng thời thúc đẩy những đơn vị chưa thực hiện phải đầu tư nhiều hơn vào các trang thiết bị và quy trình sản xuất thân thiện với môi trường”, ông nói.
Tiến sĩ Huy đề xuất Việt Nam đi theo mô hình Hệ thống mua bán phát thải của Liên minh châu Âu (EU ETS) để quản lý và điều tiết tín chỉ carbon trên sàn giao dịch bắt buộc.
“EU ETS gồm bốn giai đoạn và hoạt động dựa trên cơ sở ‘mức trần và giao dịch’, theo đó mỗi công ty có số lượng phát thải cho phép nhất định. Nếu phát thải quá mức quy định, công ty phải mua thêm hạn ngạch phát thải trên thị trường, với mức giá do thị trường định đoạt. Chẳng hạn, trong giai đoạn đầu của EU ETS, hầu hết các hạn ngạch phát thải đều miễn phí, nhưng với mỗi tấn không tuân thủ quy định sẽ bị phạt 40 euro. Các hạn ngạch phát thải miễn phí sẽ giảm bớt trong các giai đoạn tiếp theo và dần dà công ty sẽ phải đấu giá mua các hạn ngạch phát thải này”, ông cho biết.
Tiến sĩ Huy chia sẻ một số điểm chính mà Chính phủ Việt Nam cần lưu ý.
Cơ sở hạ tầng cần thiết cho sàn giao dịch tín chỉ carbon phải triển khai quy trình đo đạc, báo cáo và xác nhận (MRV) lượng phát thải theo cấp công ty và cấp trang thiết bị. Sàn giao dịch phải đáp ứng được khối lượng giao dịch lớn dù giai đoạn thí điểm có thể còn thấp. Chính phủ nên cân nhắc đưa các công nghệ mới nổi như blockchain và AI vào để giảm chi phí và tăng cường tính minh bạch và chính xác cho quy trình MRV. Những công nghệ này còn cho phép Việt Nam mở rộng và hội nhập với thị trường carbon của các quốc gia và khu vực khác như EU, Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Giá cả phải do thị trường xác định, không có sự can thiệp của chính phủ, nghĩa là đây phải là thị trường tự do.
Chính phủ Việt Nam nên xem xét hình phạt thích hợp đối với các công ty không tuân thủ và hạn chế các khoản phạt có thể khiến doanh nghiệp ngừng hoạt động.
Tiến sĩ Huy lưu ý rằng trong giai đoạn thí điểm, nếu Việt Nam theo mô hình ETS của EU, theo đó tín chỉ carbon miễn phí vào giai đoạn đầu, sẽ dẫn đến tình trạng thừa mứa nguồn cung tín chỉ carbon do các công ty tham gia sàn giao dịch ước tính lượng phát thải nhà kính chưa chính xác.
“Nguồn cung dư thừa có thể khiến giá giao dịch sụt giảm đáng kể dẫn đến thị trường kém hiệu quả, theo đó giá tín chỉ carbon có thể giảm xuống bằng 0 và các công ty có thể không bị phạt nếu họ phát thải quá mức vì họ có thể mua tín chỉ carbon miễn phí”.
Ông cho biết Việt Nam phải đối mặt với áp lực từ các quốc gia và khu vực đã triển khai thuế carbon chẳng hạn như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Cơ chế CBAM sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các ngành công nghiệp như sắt thép, xi măng, phân bón và nhôm bằng cách đánh thuế carbon nhập khẩu vào EU với các ngành này. Tuy nhiên, CBAM sẽ không được áp dụng nếu Việt Nam có ETS đáp ứng theo chuẩn của EU.
“Chính phủ Việt Nam cần dùng các công nghệ mới nổi như blockchain và AI để đẩy mạnh các quy trình MRV và giảm ước tính sai phát thải khí nhà kính trong giai đoạn thí điểm của sàn giao dịch tín chỉ carbon. Điều này cũng có thể sẽ đẩy nhanh tiến độ ra mắt sàn giao dịch tín chỉ carbon và giảm thiểu tác động của thuế carbon quốc tế đối với các công ty trong nước”, Tiến sĩ Huy nói.
Tiến sĩ Samuel Buertey cũng đề xuất chiến lược sử dụng lợi nhuận thu được từ việc bán tín chỉ carbon nhằm tăng cường bền vững môi trường cho Việt Nam.
“Doanh thu tạo ra từ việc bán tín chỉ carbon có thể phân bổ một cách thông minh vào các ngành công nghiệp khác nhau nhằm đẩy mạnh việc bảo tồn môi trường và hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi sang những hướng thực hiện thân thiện với môi trường hơn”, ông nói.
Với nguồn tài nguyên rừng bạt ngàn, Việt Nam có thể phân bổ một phần lợi nhuận để tiếp tục tài trợ cho các hoạt động quản lý rừng bền vững. Tăng cường quản lý và thể chế giám sát lâm nghiệp, đồng thời đầu tư vào các dự án trồng cây gây rừng và tái trồng rừng, sẽ đảm bảo bảo vệ rừng khỏi bị chuyển đổi cho các mục đích nông nghiệp, công nghiệp và đô thị.
Ngoài ra, chính phủ có thể tạo thêm nhiều ưu đãi cho nông dân và cộng đồng phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên rừng, khuyến khích họ bảo tồn và trồng rừng. Một phần lợi nhuận từ bán tín chỉ carbon có thể đầu tư vào các dự án năng lượng tái chể để giảm 40% sự phụ thuộc của Việt Nam vào nhiên liệu hóa thạch và giảm bớt phát thải nhà kính.
Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D) các công nghệ giảm phát thải hoặc tăng cường thu hồi carbon là khoản đầu tư đáng cân nhắc. Mặc dù công nghệ thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS) còn đang trong giai đoạn sơ khởi, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển, chính phủ có thể thiết lập một quỹ đặc biệt để hỗ trợ hoạt động R&D trong công nghệ CCUS. Khoản đầu tư này sẽ thúc đẩy đổi mới và cung cấp các giải pháp lâu dài cho những thách thức về môi trường.
Tiến sĩ Buertey còn chia sẻ cách làm tối ưu từ một số quốc gia khác mà Việt Nam có thể áp dụng để cải thiện chiến lược quản lý tín chỉ carbon.
Việt Nam phải thiết lập khung pháp lý mạnh mẽ xác định các quy tắc và hướng dẫn về việc kinh doanh tín chỉ carbon và thực thi hoạt động này. ETS của EU, được biết đến là khung pháp lý nổi bật, có thể là khuôn mẫu mà Việt Nam có thể áp dụng. Việt Nam có thể áp dụng các quy định nghiêm ngặt tương tự để đảm bảo tính liêm chính và tuân thủ của thị trường. Các yêu cầu báo cáo minh bạch và vững mạnh có thể bắt buộc thực thi như một chiến lược xây dựng lòng tin và giảm tình trạng không chắc chắn trên sàn giao dịch tín chỉ carbon. Thường xuyên công bố dữ liệu thị trường, bao gồm các báo cáo về phát thải và kết quả đấu giá, sẽ giúp giảm rủi ro thị trường.
Mặc dù giá tín chỉ carbon nên được quyết định bởi thị trường, Việt Nam có thể triển khai chiến lược ổn định thị trường dựa trên quy tắc để giải quyết biến động giá quá mức và không khuyến khích đầu tư vào carbon thấp. Chương trình Mua bán phát thải của Hàn Quốc (K-ETS) dùng dự trữ ổn định thị trường (MSR) để quản lý nguồn cung hạn ngạch phát thải và cách bang California ở Hoa Kỳ dùng giá sàn và giá trần để bình ổn giá cho Việt Nam những ví dụ tham khảo hay về cách làm thế nào có thể hạn chế biến động thị trường. Một chiến lược khác mà Việt Nam nên cân nhắc trong trung và dài hạn là liên kết với các thị trường carbon khác trong khu vực và trên toàn cầu. Từ năm 2020, EU đã liên kết ETS của mình với Thụy Sĩ, giúp thị trường linh hoạt và hiệu quả hơn. Việt Nam nên xem xét cách tiếp cận tương tự để tăng cường tính thanh khoản và đem đến nhiều lựa chọn giao dịch hơn cho doanh nghiệp.
“Với các biện pháp cẩn trọng và vững chãi, Chính phủ Việt Nam có thể thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon non trẻ và đẩy mạnh tính bền vững”, Tiến sĩ Huy.